Loạt 6 bài tổng kết của nhà báo Đoan Trang về cuốn sách mới xuất bản của Kissinger: On China đáng để đọc. Nên tôi xin copy nó về blog và để link làm tư liệu. Mặc dù có những tình tiết về các cuộc chiến tranh Việt Nam mà Kissinger không đề cập trong On China (theo nhà báo Đoan Trang). Nhưng Kissinger - một người Mỹ gốc Do Thái đã có vai trò quyết định trong chiến tranh Việt Nam - đã có một cái nhìn về Việt Nam và Trung Hoa khá sâu sắc.
Trong On China, Henry Kissinger dành riêng  một chương nói về “chiến tranh Việt Nam lần thứ ba”, tức xung đột biên  giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
- Kissinger bàn về Trung Quốc - Bài 5: Câu hỏi khó trả lời
 - Kissinger bàn về Trung Quốc- Bài 4: Cải cách và mở cửa
 - Bài 3: Tầm nhìn Đặng Tiểu Bình: Kissinger bàn về Trung Quốc
 - Bài 2: Khổng Tử, Tôn Tử và cờ vây: Kissinger bàn về Trung Quốc
 - Bài 1: Kissinger bàn về Trung Quốc
 
Ông cho rằng có “ba cuộc chiến tranh Việt Nam”, chống Pháp, chống Mỹ và chống Trung Quốc.
Kisssinger ghi lại: Vào tháng 4-1979, hai tháng sau  cuộc xâm lược chớp nhoáng của quân Trung Quốc vào Việt Nam, Hoa Quốc  Phong, lúc đó là thủ tướng Trung Quốc, đã tổng kết “chiến tranh Việt Nam  lần thứ ba” với một giọng điệu rõ là kiêu ngạo, nhằm cả vào Liên Xô:  “Họ (Liên Xô) không dám động tay chân. Thế là cuối cùng chúng ta đã có  thể sờ hông con hổ”. 
Những điều ít người biết 
Với tư cách người ngoài cuộc và là một nhà ngoại giao  Mỹ, Henry Kissinger nhận định hành động đem quân vào Việt Nam của Trung  Quốc là có ý đồ thách thức một hiệp ước phòng thủ chung được ký giữa Hà  Nội và Matxcơva cách đó chưa đầy một tháng. Do vậy, việc “Liên Xô không  dám động tay chân” có ý nghĩa rất lớn. 
Ông viết: “Cuộc chiến đặc biệt tốn kém đối với lực  lượng vũ trang Trung Quốc - vốn chưa được phục hồi hoàn toàn sau Cách  mạng Văn hóa. Nhưng hành động xâm lược đã đạt được hai mục tiêu căn bản  của nó: Liên Xô không phản ứng nghĩa là họ đã bộc lộ sự hạn chế của mình  trong khả năng vươn xa chiến lược. (…) Chiến tranh Việt Nam lần thứ ba  cũng là đỉnh cao của hợp tác chiến lược Trung-Mỹ trong Chiến tranh  Lạnh”. 
Kissinger nhận thấy khi Việt Nam đương đầu với Trung  Quốc, cả hai bên đều chịu một thách thức không hề nhỏ về địa chính trị  và tâm lý, ấy là họ ở quá gần nhau và họ quá giống nhau. “Các nhà lãnh  đạo Việt Nam đều quen thuộc với binh pháp Tôn Tử và họ đã từng áp dụng  đáng kể các nguyên tắc của binh pháp này để chống Pháp và Mỹ” -  Kisssinger viết. Đây có lẽ là một điều ít người phát hiện ra hoặc đề cập  đến khi bàn về cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung.
Tháng 2-1976, Trung Quốc cắt đứt tất cả chương trình  viện trợ cho Việt Nam. Việc này chỉ đẩy Việt Nam về phía Liên Xô hơn:  Tháng 6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON) của  khối XHCN. Tháng 11-1978, Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và  Hợp tác, trong đó có cả các điều khoản về quân sự. Tháng 12-1978, quân  đội Việt Nam tiến vào giải phóng Campuchia, lật đổ chính quyền Khmer Đỏ.  Trước đó, một thời gian dài, lính Pol Pot đã không ngừng quấy phá Việt  Nam. Suốt từ năm 1975, chính quyền Khmer Đỏ nhiều lần tấn công biên giới  phía tây nam Việt Nam, tàn sát thường dân, đánh phá các cơ sở kinh tế  và quân sự dọc biên giới. Tuy nhiên, điều này không được Kissinger nhắc  tới trong cuốn sách của mình.
Nhìn vào cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung,  Kissinger nhận định: “Yếu tố ý thức hệ đã biến mất khỏi xung đột. Các  trung tâm quyền lực của cộng sản (tức là các nước cộng sản - NV) cuối  cùng đã tiến hành chiến tranh giành thế cân bằng quyền lực không phải  căn cứ vào ý thức hệ mà hoàn toàn xuất phát từ lợi ích dân tộc”. 
Theo ông, mục tiêu của Trung Quốc là “giữ thế cân  bằng chiến lược ở châu Á” và họ thực hiện chiến dịch quân sự của mình  “với sự ủng hộ về tinh thần, ngoại giao và thông tin tình báo hợp tác từ  Mỹ - “siêu cường đế quốc” mà Bắc Kinh giúp đuổi cổ khỏi Đông Dương năm  năm về trước”. 
Song Kissinger cũng tiết lộ một số chi tiết cho thấy  thái độ của giới chức Mỹ không hoàn toàn ngả về Trung Quốc. Chẳng hạn,  vào cuối tháng 2-1979, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Michael Blumenthal sang  thăm Bắc Kinh đã kêu gọi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam càng sớm càng  tốt, vì lẽ Bắc Kinh đang “làm liều”. Đặng Tiểu Bình phản đối. Trao đổi  với báo giới trước cuộc gặp với Michael Blumenthal, Đặng tỏ ra xem  thường thái độ nước đôi và ông chế giễu “một số người nào đó” đang sợ  chọc giận “Cuba của phương Đông” (ám chỉ Việt Nam).
Tinh thần dân tộc của người Việt 
Trong On China, Henry Kissinger luôn nhắc tới  Việt Nam với một thái độ ngưỡng mộ dành cho tinh thần dân tộc, lòng yêu  nước của người Việt. Dường như đối với ông, đó là đặc điểm nổi bật nhất  trong tính cách dân tộc Việt Nam. 
Ông nhận định Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam nhiều  trong kháng chiến chống Mỹ, một phần vì ý thức hệ, một phần là để đẩy  các căn cứ quân sự của Mỹ ra xa khỏi biên giới Trung Quốc, càng xa càng  tốt. Tháng 4-1968, Chu Ân Lai nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng Trung  Quốc sẽ giúp Việt Nam để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc bị bao vây chiến  lược. “Phạm Văn Đồng đã đưa ra một câu trả lời mơ hồ - cái chính là bởi  lẽ, ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc bị bao vây chưa bao giờ là mục tiêu của  Việt Nam và các mục tiêu Việt Nam đặt ra thuần túy là những mục tiêu  dân tộc chủ nghĩa” - Kissinger viết. 
Ông tường thuật lại cuộc đối thoại đó như sau:
Chu Ân Lai: Đã lâu rồi, Mỹ nửa bao vây  Trung Quốc. Bây giờ Liên Xô cũng đang bao vây Trung Quốc. Vòng vây đang  khép kín, chỉ còn trừ phần tiếp giáp với Việt Nam. 
Phạm Văn Đồng: Chúng tôi hoàn toàn quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Chu Ân Lai: Đó là lý do tại sao chúng tôi ủng hộ các đồng chí.
Phạm Văn Đồng: Việc chúng tôi chiến thắng sẽ  có ảnh hưởng tích cực đối với châu Á. Thắng lợi của chúng tôi sẽ mang  đến những kết quả không thể dự tính trước.
Chu Ân Lai: Đồng chí nên nghĩ như vậy.
Điều thú vị là như Kissinger nhận định: “Mỹ thì chống  miền Bắc Việt Nam, coi đó như mũi giáo xung kích của một liên minh  Xô-Trung. Trung Quốc thì giúp đỡ Hà Nội để làm cùn bớt lưỡi dao của Mỹ  thọc vào châu Á. Cả hai đều nhầm. Hà Nội chỉ chiến đấu vì một lẽ duy  nhất, đó là lòng yêu nước của họ. Và một nước Việt Nam thống nhất dưới  sự lãnh đạo của những người cộng sản, chiến thắng vào năm 1975, sẽ là  mối đe dọa chiến lược to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ”. 
"Tổn thất to lớn cho Trung Quốc"
Kissinger trích dẫn cuộc đối thoại của ông với Đặng Tiểu Bình, một tháng sau khi Trung Quốc rút quân:
Đặng: Sau khi về nước (từ Mỹ), chúng tôi tiến  hành chiến tranh ngay. Nhưng chúng tôi đã hỏi ý kiến Mỹ trước rồi. Tôi  có nói chuyện với Tổng thống Carter và sau đấy ông ta trả lời rất hình  thức và theo nghi thức. (…) Tôi bảo: Trung Quốc sẽ giải quyết vấn đề một  cách độc lập và nếu có rủi ro gì thì Trung Quốc sẽ chịu một mình. Chúng  tôi nghĩ nếu chúng tôi tiến sâu hơn vào đất Việt Nam trong chiến dịch  trừng phạt thì có khi còn tốt nữa.
Kissinger: Có thể.
Đặng: Là do quân lực của chúng tôi không đủ để đánh xuống tận Hà Nội thôi. Mà cũng không nên đi quá xa như thế.
Kissinger: Không nên, mọi chuyện có thể vượt ra ngoài khả năng tính toán.
Đặng: Phải, ông nói đúng. Nhưng chúng tôi đã  đi sâu tới 30 km vào lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi chiếm được tất cả các  điểm phòng thủ. Không còn một tuyến phòng thủ nào trên đường về Hà Nội.
Cuộc chiến tranh  biên giới tháng 2-1979, với Henry Kissinger, là một dịp để thế giới  chứng kiến tình yêu nước của nhân dân Việt Nam. Không chỉ thế, người ta  còn thấy trong bản sắc dân tộc Việt Nam hai xu hướng gần như đối chọi  nhưng lại song song tồn tại: một mặt, hấp thụ văn hóa Trung Quốc; mặt  khác, chống lại ảnh hưởng chính trị và quân sự của Trung Quốc.  | 
Ngày  5-3-1979, Trung Quốc bắt đầu rút quân. Dù Hoa Quốc Phong và chính quyền  Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng nhưng theo Henry Kissinger, đó là  một cuộc chiến gây tổn thất to lớn cho Trung Quốc. 
Ông viết: “Ảnh hưởng của việc chính trị hóa quân đội  (Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc - PLA) trong suốt thời kỳ Cách mạng  Văn hóa bộc lộ rõ ràng trong chiến dịch quân sự tấn công Việt Nam:  trang thiết bị lạc hậu, hậu cần yếu kém, nhân lực thiếu, kỹ thuật kém  linh hoạt. PLA tiến quân rất chậm và phải trả giá đắt. Theo thống kê của  một số nhà phân tích, trong một tháng giao tranh với Việt Nam, số thiệt  mạng của PLA ngang với số lính Mỹ bị giết trong những năm tháng khốc  liệt nhất của chiến tranh Việt Nam”.
Song cái mà Trung Quốc đạt được, theo Henry  Kissinger, đó là cơ hội để họ hợp tác chặt chẽ với Mỹ hơn bất kỳ lúc nào  khác trong Chiến tranh Lạnh. Ông cho rằng nếu không có sự hỗ trợ từ  phía Mỹ, Trung Quốc sẽ không thể “sờ hông con hổ” (ám chỉ Liên Xô).
Asia Clinic , 8h33' Ngày Chúa Nhựt, 12/02/2012

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét