nha ban quan tan binh | mua nha quan tan binh
Hiển thị các bài đăng có nhãn loãng xương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn loãng xương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

LOÃNG XƯƠNG (OSTEOPOROSIS): PHẦN III

Bài viết của BS ThS Hàn Tiểu Sảo


PHẦN III: PHÒNG NGỪA LOÃNG XƯƠNG

Bảo vệ sức khỏe xương của bạn dễ dàng hơn bạn nghĩ

Chế độ ăn uống, hoạt động thể chất và lối sống có thể ảnh hưởng đến khối lượng xương. Để duy trì sức mạnh và mật độ xương, cơ thể đòi hỏi được cung cấp đủ calcium, khoáng chất, vitamin D, lượng thích hợp của một số hormone:

• Hormone tăng trưởng GH (growth hormon) do tuyến yên tiết ra: không có tác dụng trực tiếp lên hủy và tạo xương, nhưng nó có thể kích thích sự tổng hợp IGF1 (insulin like growth factor 1) của tế bào xương.

• Calcitonin do các tế bào cận nang giáp tiết ra làm giảm hoạt động của các tế bào hủy xương, ức chế quá trình hủy xương.

• Hormone tuyến cận giáp: dưới tác dụng của PTH thì bao giờ quá trình hủy xương cũng diễn ra mạnh hơn tạo xương.

• Estrogen được tạo ra bởi buồng trứng: có tác dụng ức chế hủy xương gián tiếp thông qua các hormon khác hoặc thông qua tác động của các yếu tố tăng trưởng tại chỗ.

• Testosterone được bài tiết chủ yếu từ tinh hoàn một lượng nhỏ từ tuyến thượng thận. Giảm testosteron hay sự thiếu hụt estradiol cũng góp phần vào sự loãng xương ở nam giới.

Với hoạt động và liều lượng tối ưu của các hormon, vitamin, và khoáng chất, bè xương phát triển thành một cấu trúc mạng phức tạp tuy trọng lượng nhẹ nhưng mạnh mẽ.

Đo loãng xương

Chỉ định đo mật độ xương (Bone Mineral Density test: BMD test) hàng năm cho phụ nữ ≥ 65 tuổi , hoặc nữ kèm các vấn đề sau:

1. Quá trọng.
2. Hút thuốc lá.
3. Giảm chiều cao, lưng khom, còng.
4. Đau lưng đột ngột không nguyên nhân rõ ràng.
5. > 45 tuổi và gãy 1 xương.
6. Bệnh mạn tính.
7. Trước và sau khi điều trị K vú.

Nếu như không có chỉ định điều trị sau khi đo mật độ xương thì chỉ cần đo lặp lại sau 2-3 năm, thậm chí 4 năm. Để phát hiện thay đổi mật độ xương 2-3% cần phải 1-1,5 năm nếu như sai số đó là 1%, và 5 năm nếu sai số của máy là 5%. Khi đo lại, cần đo ở cùng một máy trên cùng một vị trí.

Trong trường hợp điều trị, có thể đo lặp lại ở cột sống thắt lưng vì tác dụng của thuốc ở vị trí này khá rõ rệt.

Trường hợp không có điều kiện đo mật độ xương: Có thể chẩn đoán xác định loãng xương khi đã có biến chứng gãy xương dựa vào triệu chứng lâm sàng và Xquang: Đau xương, đau lưng, gẫy xương sau chấn thương nhẹ, tuổi cao… 

Vài bước đơn giản để ngăn ngừa hoặc làm chậm mất xương

1/ Bao gồm nhiều calcium trong chế độ ăn uống. Đối với người lớn, tuổi từ 19-50 và nam giới độ tuổi từ 51-70, nhu cầu calcium là 1g/ngày. Các khuyến nghị tăng tới 1.2g một ngày cho phụ nữ sau 50 tuổi và nam giới sau tuổi 70. Nguồn cung cấp calcium bao gồm cua đồng, ốc nhồi, vừng, tôm khô, pho mát và các sản phẩm từ sữa, hạnh nhân, bông cải xanh, cải xoăn, cá hồi đóng hộp với xương, cá mòi và các sản phẩm từ đậu nành như đậu phụ.

1/ Cơ thể cần vitamin D để hấp thụ calcium. Ở tuối 19-70, nhu cầu Vitamin D là 600 IU/ngày. Kiến nghị tăng đến 800 IU/ngày cho người ≥ 71 tuổi. Nguồn cung cấp vitamin D bao gồm dầu cá, như cá ngừ và cá mòi, lòng đỏ trứng và sữa tăng cường. Ánh sáng mặt trời cũng góp phần vào việc sản xuất vitamin D của cơ thể.

3/ Hoạt động thể chất: Bài tập chịu tải trọng, chẳng hạn như đi bộ, chạy bộ, tennis và leo cầu thang, có thể giúp bạn xây dựng xương và chậm mất xương. Tránh lạm dụng thuốc, không hút thuốc lá và tránh uống nhiều hơn hai ly rượu mỗi ngày.


Thức ăn có hàm lượng calcium cao: cua đồng, ốc nhồi, mè, tôm khô, và pho mát.

Nhu cầu calcium và hàm lượng calcium trong những thức ăn giàu calcium

Tài liệu tham khảo:

http://www.mayoclinic.org/healthy-lifestyle/adult-health/in-depth/bone-health/art-20045060?pg=1
http://www.webmd.com/osteoporosis/
http://bacsinoitru.vn/content/chan-doan-va-dieu-tri-loang-xuong-osteoporosis-1165.html


Tư Gia, 23:55' ngày thứ Sáu, 22/5/2015

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

LOÃNG XƯƠNG (OSTEOPOROSIS): PHẦN II

Bài viết của BS ThS Hàn Tiểu Sảo
PHẦN II: LOÃNG XƯƠNG

Định nghĩa 

Loãng xương  là sự rối loạn chuyển hoá của bộ xương gây tổn thương sức mạnh của xương đưa đến tăng nguy cơ gãy xương, là hậu quả của việc suy giảm các khung protein và lượng calcium gắn với các khung này, do giảm số lượng tổ chức xương, giảm trọng lượng của một đơn vị thể tích.

Sức mạnh của xương bao gồm sự toàn vẹn cả về khối lượng và chất lượng của xương.

Khối lượng xương được biểu hiện bằng: 
Mật đô khoáng chất của xương (Bone Mineral Density: BMD). 
Khối lượng xương (Bone Mass Content: BMC). 

Chất lượng xương phụ thuộc vào: 
Thể tích xương. 
Vi cấu trúc của xương (thành phần chất nền và chất khoáng của xương).
Chu chuyển xương (tình trạng tổn thương vi cấu trúc xương, tình hình sửa chữa cấu trúc của xương).

Phân loại 
  • Loãng xương type 1 là loãng xương sau mãn kinh, liên quan với giảm nồng độ estrogen và tác động trên bè xương hơn là vỏ xương. 
  • Loãng xương type 2 là  loãng xương do tuổi già, là hậu quả của sự lão hóa và thường được tăng cường bởi tình trạng thiếu cancium và vitamin D,  ảnh hưởng đến cả vỏ xương và bè xương. 
  • Loãng xương thứ phát liên quan đến một số bệnh hoặc việc sử dụng một số loại thuốc. 

Nguyên nhân 

1/ Chế độ ăn ít cancium và/hoặc vitamin D góp phần giảm sút mật độ xương, mất xương sớm và gia tăng nguy cơ gãy xương. Do cancium trong thức ăn không đủ để duy trì nồng độ calcium cần thiết trong máu, khi đó tế bào chính của tuyến cận giáp tiết ra Parathyroidhormon (PTH) để điều cancium trong xương chuyển ra bổ sung cho máu nhằm duy trì sự ổn định nồng độ calcium trong máu. Tình trạng này kéo dài làm cho kết cấu xương bị thưa loãng. Việc sản xuất PTH của tuyến cận giáp được điều khiển bởi tuyến yên và cơ chế phản hồi từ nồng độ cancium trong máu. 

2/ Hoạt động thể chất: những người không hoạt động thể chất có nguy cơ loãng xương hơn.

3/ Thuốc lá và rượu: thuốc lá góp phần làm yếu xương, nhiều hơn hai ly rượu mỗi ngày làm tăng nguy cơ loãng xương (do rượu cản trở khả năng của cơ thể hấp thụ cancium).

4/ Giới tính, kích thước và độ tuổi: 
  • Nguy cơ loãng xương nếu là phụ nữ, vì phụ nữ có mô xương ít hơn so với nam giới. 
  • Nếu cơ thể rất gầy (BMI ≤ 19) hoặc có khung cơ thể nhỏ: Kém phát triển thể chất từ khi còn nhỏ, đặc biệt là còi xương, suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protein, thiếu cancium hoặc tỷ lệ cancium/phospho trong chế độ ăn không hợp lý, thiếu vitamin D hoặc cơ thể không hấp thu được vitamin D... nên khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở tuổi trưởng thành thấp, đây được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh loãng xương. 
  • Xương trở nên mỏng hơn và yếu hơn khi già đi. Đặc điểm của loãng xương tuổi già là tăng quá trình huỷ xương giảm quá trình tạo xương, gặp ở cả nam và nữ vì các nguyên nhân:
              - Các Osteoblast bị lão hoá. Hoạt động của nguyên bào xương giảm khi lớn tuổi.
              - Sự hấp thu calcium ở ruột bị  hạn chế do chức năng dạ dày, đường ruột, gan, thận suy yếu…
                Ít hoạt động ngoài trời, thiếu ánh nắng, thiếu vitamin D.
              - Sự suy giảm tất yếu các hormon sinh dục (nữ và nam).

5/ Chủng tộc và lịch sử gia đình: Người da trắng hoặc người gốc Á Châu có nguy cơ loãng xương hơn các chủng tộc khác. Ngoài ra, có cha mẹ hoặc anh chị em ruột bị loãng xương thì có nguy cơ cao hơn - đặc biệt là lịch sử gia đình có người bị gãy xương.

6/ Mức độ hormone: 
  • Quá nhiều hormon tuyến giáp có thể gây mất xương do tăng bài tiết cancium và phốt pho trong nước tiểu và phân. 
  • Ở phụ nữ, mất xương tăng đáng kể ở thời kỳ mãn kinh do giảm nồng độ estrogen làm tăng nhanh tốc độ quá trình chuyển cancium từ xương vào máu (Tăng quá trình huỷ xương trong khi quá trình tạo xương bình thường). Thiếu hụt Estrogen là yếu tố chính dẫn đến giai đoạn nhanh chóng mất xương, nhưng các yếu tố khác như giảm mức độ IGF-1 và PTH cao góp phần vào giai đoạn mất xương chậm sau mãn kinh. Loãng xương sau mãn kinh làm nặng hơn tình trạng loãng xương do tuổi ở phụ nữ. Mất xương cột sống thường là 3%/năm trong khoảng 5 năm đầu sau khi mãn kinh. Sau đó, tốc độ chậm hơn (khoảng 0,5%/năm), ảnh hưởng đến cả vỏ xương và bè xương. 
  • Ở nam giới, nồng độ testosterone thấp có thể gây ra mất khối lượng xương. Những thay đổi trong mức độ IGF-1 và PTH cùng với sự suy giảm estrogen sinh học cũng đóng một vai trò trong việc mất xương ở nam giới. 
7/ Ăn quá nhiều protein, natri, và caffeine. Những người bị chứng biếng ăn hoặc ăn vô độ có nguy cơ mất xương. Dinh dưỡng thiếu làm thiếu các yếu tố vi lượng như calcium, phospho, magne, albumin, acid amin góp phần gây loãng xương. 

8/ Nhiều bệnh gây nguy cơ loãng xương bao gồm: cường cận giáp, tiểu đường type 1, suy thượng thận, hội chứng Cushing, chán ăn tâm thần, hội chứng kém hấp thu, và một số bệnh ác tính. Cơ chế góp phần vào sự mất xương là khác biệt cho từng bệnh. Nhiều loại thuốc cũng có tác dụng bất lợi trên xương. Sử dụng kéo dài của glucocorticoid là nguyên nhân phổ biến nhất của loãng xương do thuốc. Các loại thuốc khác bao gồm heparin, thuốc ức chế aromatase, barbiturates, các thuốc đồng vận hormon gonadotropin-releasing, cyclosporine, tacrolimus, depot medroxyprogesterone, lithium, hóa trị liệu ung thư, thuốc chống co giật.

Triệu chứng

Loãng xương là bệnh diễn biến âm thầm không có triệu chứng lâm sàng đặc trưng, chỉ biểu hiện khi đã có biến chứng. Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi trọng lượng xương giảm > 30%. Sự xuất hiện từ từ tự nhiên hoặc sau một chấn thương, đôi khi tình cờ chụp X quang mà thấy.

Đau và hạn chế vận động cột sống, cánh chậu, bả vai.

Tái phát từng đợt, thường sau khi vận động nhiều, chấn thương nhẹ, thay đổi thời tiết.

Cột sống giảm dần chiều cao, biến dạng đường cong sinh lý dẫn đến gù vùng lưng hay thắt lưng, chiều cao cơ thể giảm đi rõ rệt so với khi còn trẻ tuổi. Xương dễ gãy, đôi khi chỉ một chấn thương nhẹ cũng làm gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay, gãy lún đốt sống.






Hai phần ba gãy xương cột sống do loãng xương không đau. Nếu có, cơn đau cấp tính sau ngã hoặc chấn thương nhẹ, đau nhói hay ê ẩm. Điểm đau rõ ở cột sống, đau khi ấn, một số trường hợp đau lan tới vùng bụng. Đau thường kèm theo co thắt cơ quanh đốt sống, cử động làm tăng đau, giảm khi nằm ngửa. Cơn đau cấp thường tự khỏi sau 4-6 tuần; trong bối cảnh nhiều xương gãy với gù cột sống nặng, cơn đau có thể trở thành mãn tính.

Triệu chứng đau của  gãy xương hông: Đau ở háng, mông, trước đùi, giữa đùi, và /hoặc giữa đầu gối do mang nặng, hạn chế cử động háng.


Chẩn đoán 

Chẩn đoán loãng xương khi mật độ xương theo chỉ số T-score được đo bằng phương pháp DEXA ≤ - 2,5 
(theo Tổ chức Y tế thế giới).

+ Xương bình thường:                              T score  ≥ – 1  SD
+ Thiếu xương (Osteopenia):  – 2,5SD < T score  < – 1   SD
+ Loãng xương (Osteoporosis):               T score  ≤ - 2,5 SD
+ Loãng xương nặng:                               T score  ≤ - 2,5 SD kèm tiền sử/ hiện tại có gãy xương

Đo mật độ xương (BMD test) tại cổ xương đùi và cột sống thắt lưng theo phương pháp DEXA


T-Score = (BMD – mBMD) / SD    Trong đó: 
  • BMD: mật độ xương của đối tượng khảo sát.
  • mBMD: mật độ xương trung bình (cũng là BMD max) của quần thể dân số tuổi từ 20-30.
  • SD: độ lệch chuẩn của BMD trung bình của quần thể dân số trên.
Đo BMD cổ xương đùi của phụ nữ VN tuổi 20-30 bằng phương pháp DEXA: 
mBMD= 0.94 g/cm2, SD=0.11 g/cm2
Ví dụ: một phụ nữ 60 tuổi, có BMD tại cổ xương đùi là 0.65 g/cm2 
Như vậy: T-Score của bà ta là: (0.65-0.94)/ 0.11 = -2.63
Có nghĩa là BMD phụ nữ này thấp hơn BMD lúc 20-30 tuổi là 2.63 lần SD.
T-Score có ý nghĩa so sánh BMD hiện tại với BMD tối đa.

Z-Score = (BMD- tBMD)/ SD      Trong đó:
  • BMD: mật độ xương của đối tương khảo sát.
  • tBMD: BMD trung bình của quần thể có cùng độ tuổi với đối tượng.
  • SD: độ lệch chuẩn.
Đo BMD cổ xương đùi của quần thể dân số nữ 65 tuổi bằng phương pháp DEXA: 
 tBMD = 0.81g/cm2  , SD=0.11g/cm2
Ví dụ: một phụ nữ A  65 tuổi có BMD cổ xương đùi là 0.86 g/cm2  
Như vậy: Z-Score của bà ta là: (0.86 - 0.81)/ 0.11= +0.45
Có nghĩa là BMD của bà A cao hơn BMD của các phụ nữ khác có cùng độ tuổi là 0.45 lần SD.
Z-Score có ý nghĩa so sánh BMD của đối tượng với BMD của những người cùng tuổi trong một quần thể.


Chúng tôi sẽ cập nhật phần 3: Phòng ngừa loãng xương

Asia Clinic, 8h27' ngày thứ Năm, 21/5/2015

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

LOÃNG XƯƠNG (OSTEOPOROSIS): PHẦN I

Bài viết của BS ThS Hàn Tiểu Sảo

PHẦN I: ĐẠI CƯƠNG HỆ XƯƠNG


Chúng ta sinh ra với khoảng 300 xương mềm. Suốt thời thơ ấu và niên thiếu, sụn phát triển và dần được thay thế bởi xương cứng. Một số xương sau này hợp nhất với nhau, do đó bộ xương người lớn có 206 xương.

Xương đóng nhiều vai trò trong cơ thể : 

Khung nâng đỡ cơ thể.
Bảo vệ các tạng.
Chỗ bám của cơ để chúng ta có thể di chuyển, vận động
Môi trường cho tủy (nơi các tế bào máu được sản xuất).
Khu vực lưu trữ các chất khoáng (như cancium).

Dựa theo hình dạng, xương được phân thành 4 loại:


1/ Xương dẹt (flat bones): bề mặt mỏng và rộng, có chức năng bảo vệ, ví dụ các tấm hộp sọ, xương bả vai, xương ức, xương sườn.

2/ Xương dài (long bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu, ví dụ xương đùi, xương cánh tay, xương chày.

3/ Xương ngắn (short bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu giống xương dài nhưng nhỏ hơn nhiều, ví dụ xương đòn, xương bàn và đốt ngón tay chân.

4/ Xương bất định (irregular bones): đai dạng (dài, ngắn, phẳng), ví dụ đốt sống, cổ tay cổ chân, xương bánh chè.

Ngoài ra, còn có các xương vừng (sasemoid bones) nhỏ, phát triển trong các gân cơ nằm quanh khớp xương đề bảo vệ và tăng cường tác động cơ học của gân cơ, sự vững chắc của khớp.

Cấu trúc xương từ ngoài vào trong:


Cấu Trúc xương

Xương được bao phủ bởi một màng mỏng gọi là màng xương (periosteum: ngoại cốt mạc): là một màng liên kết dai, đính chặt vào xương, gồm 2 lá: lá ngoài chứa các nhánh tận cùng của thần kinh cảm giác nên chấn thương xương thì đau đớn bởi vì các dây thần kinh đau cảm ứng nằm chủ yếu ở màng xương, lá trong chứa các tạo cốt bào, hủy cốt bào và nhiều mạch máu. 
Các mặt khớp không có màng xương.

Vỏ cứng gọi là vỏ xương (compact bone): là mô xương đặc, rắn chắc. Gồm chủ yếu protein (như collagen) và hydroxyapatite (trong đó bao gồm chủ yếu là canxi và các khoáng chất khác). Hydroxyapatite chịu trách nhiệm về sức mạnh và mật độ của xương. 

Lớp xốp bên trong (cancellous bone): do nhiều bè xương (trabecular) đan chéo nhau, tạo nên những hốc nhỏ. Mạng lưới các bè xương nhẹ hơn và ít dày đặc hơn so với phần bên ngoài cứng nhưng vẫn đóng góp đáng kể vào sức mạnh của xương. Việc giảm số lượng hoặc chất lượng của bè xương làm tăng nguy cơ gãy xương.

Tủy xương (bone marrow) là mô lấp đầy khoảng trống trong bè xương. Tủy xương gồm tủy đỏ là nơi tạo huyết chứa những tế bào chuyên biệt (bao gồm cả tế bào gốc) sản xuất các tế bào máu, tủy vàng chứa nhiều tế bào mỡ có trong các ống tủy (medullary cavity) của thân xương dài. 

Xương được cấu tạo bởi:

1/ Nguyên bào tạo xương (osteoblasts) và tế bào tạo xương (osteocytes) tham gia vào việc tạo xương và khoáng hóa mô xương. 

2/ Tế bào hủy xương (hủy cốt bào: osteoclasts): là các tế bào chịu trách nhiệm cho sự hủy xương.

3/ Chất nền collagen và noncollagenous protein (osteoid).

4/ Muối khoáng vô cơ lắng đọng trong chất nền. Độ cứng của xương là do sự hiện diện của muối khoáng trong chất nền, là một phức hợp tinh thể canxi và phosphate (hydroxyapatite). Xương bị vôi hóa có chứa khoảng 25% chất nền hữu cơ (2-5% trong số đó là các tế bào), 5% nước và 70% khoáng vô cơ (hydroxyapatite).

Cấu trúc xương điều chỉnh trong suốt cuộc đời để đáp ứng với hoạt động và sức nặng cơ học. Xương được tu sửa liên tục. Trong quá trình này, xương mới được tạo và xương cũ bị phá hủy, mô xương cũ được dần  thay thế bởi mô xương mới.

Mỗi xương trong cơ thể được hoàn toàn đổi mới mỗi 10 năm. Khi còn trẻ, quá trình tạo xương mới nhanh hơn sự phá hủy xương cũ, nên xương tăng khối lượng. Hầu hết mọi người đạt được đỉnh cao khối lượng xương ở tuổi 30. Sau đó, tu sửa xương vẫn tiếp tục, nhưng sự mất xương nhiều hơn sự tạo xương. Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng bình thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương: sự mất xương vượt quá sự hình thành xương, dẫn đến khối lượng xương thấp, bất thường vi kiến trúc xương, tăng nguy cơ gãy xương.

Mời đọc phần 2: Loãng xương

Asia Clinic, 9h46' ngày thứ Tư, 20/5/2015